Thị trường viên nén gỗ Nhật Bản và Hàn Quốc: Tổng quan về khả năng chi trả của họ cho viên nén gỗ
- ThuanLoiBP
- 28 thg 3, 2020
- 11 phút đọc
By William Strauss, PhD, President, FutureMetrics
October 28, 2019
Đã có nhiều dự báo về nhu cầu tiềm năng viên nén gỗ tại thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Đối với việc cụ thể hóa nhu cầu nguồn cung ổn định, giá phải trả cho viên nén gỗ phải đủ cao và đủ dài hạn để hỗ trợ cho việc đầu tư vào năng lực sản xuất mới này.
Như FutureMetrics đã lưu ý trong một bài viết quan trọng vài năm trước (1), chính sách chứng nhận nguồn năng lượng tái tạo (REC-Renewable Energy Certificate) của Hàn Quốc vốn không thể đoán trước được và do đó, khả năng chi trả của người mua Hàn Quốc cũng không thể đoán trước được. Ngược lại, người mua Nhật Bản có chính sách tạo ra sự dự đoán doanh thu cho các nhà sản xuất điện trong một khoảng thời gian nhất định.
Bài viết này sẽ trình bày một vài kịch bản đánh giá tổng quan về cách mà các chính sách sẽ hổ trợ và không hổ trợ đối với khả năng chi trả của các nhà máy điện cho nguyên liệu viên nén gỗ theo các thỏa thuận bù đắp dài hạn bền vững và công bằng.
Hàn Quốc - Như đã lưu ý trong bài viết được tham chiếu trong phần chú thích, FutureMetrics đã lo ngại về sự ổn định nhu cầu của Hàn Quốc trong một số năm. Dữ liệu gần đây tiếp tục chứng tỏ mối quan ngại đó. Biểu đồ trang tiếp theo cho thấy giá nguyên liệu năng lượng tái tạo (REC) có sụp đổ (2). Nguồn cung dư thừa (và/hoặc không đủ cầu) đã đẩy giá thị trường cho REC xuống dưới 52 USD. Vào tháng 5/2017, giá nguyên liệu năng lượng tái tạo (REC) đã hơn 112 đô la Mỹ (theo tỷ giá hối đoái hiện tại) cao hơn 115% so với tháng 9/2019.

Giá REC giảm đã dẫn đến việc nhập khẩu vào Hàn Quốc giảm mạnh.

Và sự sụt giảm nhu cầu kết hợp với nguồn cung giảm dẫn đến sự ổn định của giá trung bình viên nén gỗ giao cho thị trường Hàn Quốc.

Vào tháng 9 năm 2019, FutureMetrics ước tính giá viên nén gỗ giao (không phải FOB) từ Việt Nam (đường màu cam trong biểu đồ trên) đã ghi nhận đạt mức giá thấp nhất (91,63 đô la Mỹ) kể từ khi giao dịch viên nén diễn ra vào năm 2015. Việt Nam có 60 % đến 70% thị phần viên nén tại thị trường Hàn Quốc, do đó nhu cầu từ Hàn Quốc giảm có tác động mạnh đến các nhà sản xuất viên nén của Việt Nam (3). Giá (REC) thấp đã thay đổi dòng tiền của các nhà máy sử dụng lò đốt hiện có. Nhưng sự thay đổi lớn là do giá trung bình REC mới (xem bảng bên dưới). Sự kết hợp giữa giá REC thấp và thế hệ công nghệ từ chỉ sử dụng ½ nguyên liệu tái tạo (REC) cho mỗi MWh sang công nghệ mới chuyển đổi hoàn toàn sử dụng REC và công nghệ không sử dụng REC đã ảnh hưởng đến thị trường Hàn Quốc hiện tại ở cả phương diện về nhu cầu số lượng và giá mà người mua Hàn Quốc sẵn sàng chi trả.

Với giá REC khoảng 60.000 Yên và đối với các dự án mới sử dụng hoàn toàn viên gỗ (0,5 REC/MWh), chi phí hòa vốn viên nén gỗ giao cho các nhà máy điện là khoảng 135 USD/tấn. Chi phí đó bao gồm giá thành tại xưởng nhà máy sản xuất viên nén, chi phí lưu trữ và vận chuyển đến cảng, chi phí vận chuyển từ cảng đi tới cảng đến (4). Giá nhập khẩu hiện tại được hiển thị trong biểu đồ trên trang trước (không bao gồm phí logistic nội bộ tại cảng Hàn Quốc), là dưới mức đó (135USD/tấn). Điều này chủ yếu là do các nhà sản xuất Việt Nam đang có giá thấp kỷ lục. Nếu giá REC giảm xuống còn 45.000 yên, chi phí hòa vốn của viên nén gỗ giao cho nhà máy điện sẽ giảm xuống còn khoảng 123 USD/tấn. Khi các yêu cầu về tiêu chuẩn danh mục đầu tư tái tạo RPS (5) (Renewable Portfolio Standard) của Hàn Quốc tăng lên tới 10% vào năm 2023 (từ 6% vào năm 2019 và 7% vào năm 2020), nhu cầu đối với nhiên liệu rắn tái tạo có thể tăng lên. Điều này có thể cân bằng lại cung và cầu về nguyên liệu năng lượng tái tạo REC và giá của REC sẽ tăng trong một khoảng thời gian nào đó.
Nhưng sự không chắc chắn về giá REC và cách mà Hàn Quốc có thể thay đổi một lần nữa các quy định có thể sẽ ngăn hầu hết các nhà sản xuất Hàn Quốc tham gia vào các thỏa thuận bao tiêu dài hạn cho số lượng lớn viên nén.
Đây không phải là trường hợp của Nhật Bản
Nhật Bản – Cơ chế giá bán điện năng từ nguồn năng lượng tái tạo của Nhật Bản (FiT) cung cấp nền tảng ổn định cho nhu cầu nguyên liệu sinh khối. Các dự án được FiT phê duyệt nhận được doanh thu cố định trên mỗi kWh trong 20 năm kể từ khi bắt đầu phát điện. Báo cáo sắp tới của FutureMetrics được tham chiếu ở trang một trong bài này sẽ chứa các chi tiết liên quan đến nhu cầu dự kiến trong tương lai từ các nhà sản xuất điện độc lập ((Independent power producer - IPP). Đối với chương trình IPP (6) đã được FiT phê duyệt, nhu cầu có thể vượt quá 4,5 triệu tấn mỗi năm vào năm 2023-24 (trung bình khoảng 375.000 tấn mỗi tháng). Như biểu đồ dưới đây cho thấy, nhu cầu của Nhật Bản gần đây trung bình khoảng 125.000 tấn mỗi tháng.

Khả năng thanh toán của người mua Nhật Bản được hỗ trợ bởi doanh thu hàng đầu được biết đến từ FiT. Hầu hết các dự án của chương trình IPP hiện đang hoạt động hoặc trong lộ trình xây dựng sẽ nhận được ¥24/kWh. (Khoảng 0,23 đô la Mỹ/kWh hoặc 229 đô la Mỹ/MWh theo tỷ giá hối đoái hiện tại). Mức hổ trợ này được FiT cố định trong 20 năm. Do đó, rủi ro lạm phát phải được xem xét bởi cả người mua và nhà sản xuất. Nhưng với mức giá 229 USD/MWh, FutureMetrics ước tính rằng có một khoảng dư địa lớn giữa doanh thu từ bán điện và chi phí sản xuất.
Giả sử giá bán tại nhà máy sản xuất viên nén vào năm 2020 là 145 đô la/tấn và chi phí vận chuyển cộng vào để chuyển đến nhà máy điện tổng cộng là 200USD, và giả sử giá viên nén tăng 2,0% mỗi năm, IPP dự kiến sẽ có dòng tiền dương hàng năm từ năm 2020 đến năm 2040 (thời hạn 20 năm của FiT).
Biểu đồ bên dưới, từ bảng điều khiển trực tuyến của FutureMetrics, cho thấy theo các giả định đó, IPP có dòng tiền ròng dương trong khoảng giữa từ $50 mỗi MWh vào năm 2020. Khi giá viên nén tăng hàng năm và dòng doanh thu cố định, tỷ suất lợi nhuận giảm xuống gần bằng 0 vào năm 2040.


Chính sách của Nhật Bản mang đến sự chắc chắn. IPP có thể tham gia vào các hợp đồng dài hạn. Và dựa trên các giả định đầu vào trong bảng điều khiển trực tuyến của FutureMetrics cho ví dụ này, có vẻ như việc giao cho nhà máy điện với giá 200 đô la/tấn vào năm 2020 với mức tăng 2,0% mỗi năm trong cung cấp đủ dư địa cho IPP ít nhất là tham gia vào hợp đồng 10 năm mà không có rủi ro mất tiền.
Khả năng chi trả một mức giá đủ cao để hỗ trợ giá tại xưởng mang lại dòng tiền dương cho nhà sản xuất viên nén và khả năng tham gia vào thỏa thuận 10 năm để mua viên nén, cung cấp nền tảng cho sự phát triển của các nhà máy sản xuất viên nén cung cấp cho người mua Nhật Bản.
Việc điều chỉnh giá hàng năm cung cấp một sự an toàn cho nhà sản xuất khỏi các lực lượng thị trường vĩ mô và kinh tế vi mô bên ngoài có thể sẽ khiến chi phí đầu vào cho sản xuất viên nén tăng lên trong thời hạn của thỏa thuận. Rủi ro lạm phát đó phải được xem xét trong một thỏa thuận dài hạn. Biểu đồ dưới đây cho thấy chỉ số giá sản xuất của Hoa Kỳ cho sản xuất các sản phẩm gỗ linh tinh (không có chỉ số cho viên nén). Trong 10 năm qua, các nhà sản xuất đã trải qua sự gia tăng trung bình hàng năm về chi phí khoảng 2,1%.

Lạm phát trong vòng 10 năm tới sẽ không được biết. Nhưng có khả năng chi phí đầu vào cho các nhà sản xuất viên sẽ tăng lên. Ví dụ, một phần đáng kể chi phí cung cấp sợi gỗ cho nhà máy sản xuất viên nén là từ chi phí nhiên liệu diesel được sử dụng trong thu hoạch và vận chuyển. Khi giá nhiên liệu diesel tăng, chi phí gỗ cho nhà sản xuất viên sẽ tăng. May mắn thay, FiT của Nhật Bản cung cấp doanh thu đủ cao cho mỗi MWh để cho phép các IPP tham gia trong các thỏa thuận bao tiêu dài hạn có các điều khoản phù hợp với cả người sản xuất và người mua.
Thật không may, theo chính sách hiện tại, RPS của Hàn Quốc thì không.
Ghi chú:
(1) Tại sao Hàn Quốc có thể không bao giờ tham gia vào các thỏa thuận giảm giá dài hạn, tháng 5 năm 2017.
(2) Kể từ tháng 8 năm 2019, chỉ có giá trung bình trong tháng được công bố. Dữ liệu cao và thấp hiện không có sẵn.
(3) Xem bài của FutureMetrics: Những phát triển gần đây của thị trường gỗ công nghiệp Hàn Quốc, được xuất bản vào ngày 29 tháng 7 năm 2019 để biết thêm về tác động đối với các nhà sản xuất Việt Nam.
(4) Bắt nguồn bằng bảng điều khiển trực tuyến FutureMetrics. Bảng điều khiển miễn phí để sử dụng tại LINK này. Bảng điều khiển yêu cầu Adobe Flash phải được bật trên trình duyệt web.
(5) Renewable portfolio standards. HERE
(6) Chương trình FiT đã được cập nhật và không chắc chắn, theo các quy tắc hiện hành, bất kỳ nhà máy điện chạy bằng viên nén gỗ nào đều sẽ nhận được chính sách của FiT.
5. Các mô hình thị trường điện
Mô hình thị trường điện cạnh tranh phát điện có một đại lý mua buôn
Mô hình này được coi là bước đầu của quá trình cải tổ tiến tới tự do hóa trong kinh doanh điện. Mô hình một người mua cho phép các nhà đầu tư tư nhân xây dựng, sở hữu và quản lý các nhà máy điện độc lập (Independent power producer - IPP). Các công ty phát điện phải cạnh tranh để bán điện cho đơn vị mua điện duy nhất. Đơn vị mua duy nhất độc quyền mua điện từ các nguồn phát và bán điện đến các khách hàng sử dụng điện.
Mô hình này bảo đảm rủi ro ít nhất cho các IPP, làm tăng trách nhiệm của các công ty điện lực mặc dù nó vẫn tạo động lực thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực phát điện. Thị trường phát điện cạnh tranh một người mua đòi hỏi phải chia tách chức năng của các khâu truyền tải và phát điện trong mô hình liên kết dọc.

- Ưu điểm
+ Không gây ra những thay đổi đột biến và xáo trộn lớn...
+ Cơ hội thực hiện thành công cao.
+ Hình thành được môi trường cạnh tranh trong khâu phát điện.
+ Thu hút được đầu tư vào các nguồn điện mới.
+ Không gây ảnh hưởng lớn tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty phân phối hiện tại.
+ Mô hình thị trường đơn giản nên hệ thống các quy định cho hoạt động của thị trường chưa phức tạp.
+ Nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho vận hành thị trường không lớn.
- Hạn chế
+ Đơn vị mua duy nhất được độc quyền mua nguồn điện từ các đơn vị phát điện.
+ Mức độ cạnh tranh chưa cao, chỉ giới hạn cạnh tranh trong phát triển các nguồn điện mới.
+ Chưa có lựa chọn mua điện cho các công ty phân phối khách hàng.
Mô hình cạnh tranh phát điện và cạnh tranh bán buôn
Mô hình này tạo ra sự cạnh tranh trong khâu phát và bán buôn điện. Điểm khác biệt nổi bật đối với mô hình một người mua là các công ty phân phối được quyền lựa chọn mua điện trực tiếp từ bất cứ công ty phát điện nào, không nhất thiết phải từ đơn vị mua duy nhất. Tuy nhiên, khâu bán lẻ điện đến các khách hàng dùng điện vẫn độc quyền bởi các công ty phân phối quản lý địa bàn của mình.
Trong mô hình thị trường bán buôn điện cạnh tranh, các công ty phát điện sẽ tự do cạnh tranh và chịu các rủi ro trong đầu tư kinh doanh. Các giao dịch mua bán điện năng được thực hiện thông qua các hợp đồng song phương hoặc thông qua thị truờng tức thời hoặc dưới cả hai hình thức.

- Ưu điểm
+ Đã xóa bỏ được độc quyền mua điện của đơn vị mua duy nhất trong thị trường một người mua.
+ Các đơn vị phân phối có quyền cạnh tranh mua điện từ nhà cung cấp. Các khách hàng tiêu thụ lớn được quyền lựa chọn nhà cung cấp.
+ Lượng điện mua bán qua thị trường ngắn hạn tăng lên đáng kể, tăng mức độ cạnh tranh.
- Hạn chế
+ Khách hàng tiêu thụ vừa và nhỏ chưa được quyền lựa chọn nhà cung cấp, vẫn còn độc quyền trong khâu bán lẻ điện.
+ Hoạt động giao dịch thị trường đòi hỏi hệ thống qui định cho hoạt động của thị trường phức tạp hơn.
+ Nhu cầu đầu tư về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho vận hành thị trường lớn.
Thời gian gần đây, trong quá trình tái cấu trúc tại thị trường California và trước đó tại Nauy và Tây Ban Nha, người ta đã cải tiến và đề xuất một mô hình thị trường bán buôn linh động hơn. Bên cạnh việc giao dịch dựa trên thị trường chung, còn cho phép thực hiện các giao dịch song phương tự nhiên để lập kế hoạch kết hợp giữa phát điện và nhu cầu bên ngoài thị trường chung.
Thị trường điện bán buôn có ba mô hình hoạt động cơ bản:
- Mô hình thị trường điện tập trung (PoolCo)
- Mô hình hợp đồng song phương (Bilateral)
- Mô hình lai giữa thị trường chung và hợp đồng song phương (Hybrid)
Mô hình thị trường điện song phương
Trong thị trường này người mua và người bán có thể giao dịch trực tiếp với nhau không thông theo sự sắp xếp của thị trường bằng những hợp đồng song phương.
Các nhà cung cấp có trách nhiệm thanh toán chi phí truyền tải cho công ty sở hữu truyền tải để được tham gia vào lưới truyền tải cũng như trả chi phí cho công ty phân phối để được tham gia vào lưới phân phối.
Giá điện được xác định theo từng hợp đồng, người mua và người bán điện sẽ thương thảo trực tiếp để thống nhất giá điện cho hợp đồng.
Sau khi các bên tham gia hợp đồng song phương thống nhất các điều khoản trong hợp đồng, công ty phát có nhiệm vụ thông báo các thông tin cần thiết cho ISO để vận hành hệ thống.
Giá truyền tải phải đảm bảo công bằng đối với tất cả những người tham gia vào hệ thống.

Mô hình thị trường điện cạnh tranh bán lẻ
Mô hình bán lẻ cạnh tranh là bước phát triển cao nhất, cuối cùng của cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh điện.
Là mô hình mà ở đó tất cả các khách hàng đều có quyền lựa chọn nhà cung cấp điện. Giá cả hoàn toàn được xác định dựa trên mối quan hệ cung cầu điện năng.

- Ưu điểm
+ Mức độ cạnh tranh tăng rất nhiều. Khách hàng dùng điện được lựa chọn mua điện. Xóa bỏ hoàn toàn độc quyền trong kinh doanh mua bán điện.
+ Chất lượng dịch vụ, chất lượng điện năng sẽ được nâng lên đáng kể; giá điện do cạnh tranh cao nên có thể giảm đáng kể.
+ Giảm dần tiến tới loại bỏ bù chéo trong kinh doanh phân phối và bán lẻ điện giữa các vùng trong cả nước.
+ Mức độ điều tiết trong thị trường giảm đi rất nhiều so với hai cấp độ trước.
- Hạn chế
+ Hoạt động giao dịch thị trường rất phức tạp, đòi hỏi hệ thống qui định cho hoạt động của thị trường phức tạp hơn.
+ Nhu cầu đầu tư về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho vận hành thị trường lớn hơn rất nhiều so với thị trường buôn bán cạnh tranh.
Comentarios